Hậu quả của việc sống chung nhưng không kết hôn
Hiện nay, trong xã hội, việc các cặp đôi lựa chọn sống chung nhưng không đăng ký kết hôn không còn là điều hiếm gặp. Một số người cho rằng đây là cách giúp họ tự do hơn, không bị ràng buộc pháp lý và có thể “thử” cuộc sống hôn nhân trước khi quyết định chính thức đăng ký kết hôn ở bên nhau.
1. Vì sao nhiều người chọn sống chung nhưng không kết hôn?
Có nhiều lý do khiến các cặp đôi không muốn làm thủ tục đăng ký kết hôn:
- Sợ mất tự do: Một số người lo ngại giấy đăng ký kết hôn sẽ trở thành “sợi dây trói” khiến họ mất quyền tự do cá nhân.
- Muốn thử sự hòa hợp: Sống chung như một cách để kiểm tra sự tương thích về tính cách, thói quen, tài chính.
- Tránh thủ tục giấy tờ: Không muốn mất thời gian và công sức làm hồ sơ pháp lý.
- Quan niệm hiện đại: Tin rằng tình yêu và sự tự nguyện quan trọng hơn một tờ giấy chứng nhận.
- Xét về tâm lý, sống chung không hôn thú có thể mang lại cảm giác thoải mái, ít áp lực ban đầu.
Ban đầu, cả hai có thể cảm thấy thoải mái vì không bị ràng buộc bất kỳ điều gì liên quan đến pháp luật hay họ hàng hai bên. Nhưng theo thời gian, sự “tạm bợ” của mối quan hệ dễ khiến một hoặc cả hai bên cảm thấy lo lắng và không có cảm giác an toàn. Bởi lẽ, không có giấy đăng ký kết hôn đồng nghĩa với việc mối quan hệ không được pháp luật công nhận bảo vệ, bất cứ lúc nào một bên muốn chấm dứt, họ có thể rời đi mà không bị ràng buộc gì về pháp luật cả.


2. Pháp luật có công nhận mối quan hệ vợ chồng khi không kết hôn không?
Theo Luật Hôn nhân và Gia đình 2014, chỉ khi nam và nữ đăng ký kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền thì mối quan hệ mới được công nhận là hôn nhân hợp pháp. Nếu chỉ sống chung, pháp luật không công nhận đó là vợ chồng, ngoài ra còn kéo theo một số hệ quả như:
- Không phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng theo luật.
- Không được áp dụng các quy định bảo vệ hôn nhân hợp pháp khi có tranh chấp xảy ra.
- Một số quyền lợi (như: chồng được nghỉ thai sản nếu vợ sinh con, hưởng thừa kế theo pháp luật (vợ, chồng là hàng thừa kế thứ nhất được ưu tiên hưởng), hưởng bảo hiểm xã hội khi chồng/vợ qua đời…) sẽ không được hưởng.
- …
Có thể nhận thấy, khi không có ràng buộc pháp lý, một số vấn đề dễ có thể xảy ra:
- Dễ buông bỏ nhau khi mâu thuẫn xảy ra.
- Thiếu cảm giác an toàn vì mối quan hệ không được xã hội công nhận.
- Tâm lý lo lắng, đặc biệt ở người phụ thuộc kinh tế vào đối phương.
Sống chung nhưng không kết hôn có thể mang lại cảm giác tự do, nhưng cũng đồng nghĩa với việc bạn tự bỏ đi những quyền lợi đáng lẽ được bảo vệ. Một mối quan hệ tình cảm vợ chồng không chỉ cần riêng tình yêu, mà còn cần sự bảo đảm về quyền lợi và trách nhiệm, điều mà chỉ có hôn nhân hợp pháp mang lại.
3. Vấn đề con chung khi sống chung không kết hôn
Nếu hai người có con khi chưa đăng ký kết hôn, quyền và nghĩa vụ với con vẫn được pháp luật bảo vệ. Tuy nhiên, để tên của cả cha và mẹ cùng xuất hiện trên giấy khai sinh, cần thực hiện thủ tục nhận cha, mẹ, con tại cơ quan hộ tịch.
Trường hợp một bên không hợp tác hoặc từ chối nhận con, người kia phải làm thủ tục xác định cha hoặc mẹ thông qua Tòa án, mất nhiều thời gian và chi phí.
Ngoài ra, khi cả hai không còn tình cảm và không muốn sống chung với nhau nữa, vấn đề về quyền nuôi con và cấp dưỡng cho con vẫn thực hiện theo quy định bình thường và dựa trên quyền lợi của con nhưng không áp dụng một số quy định ràng buộc như trong hôn nhân hợp pháp.


4. Vấn đề tải sản khi sống chung không kết hôn
Khi sống chung với nhau mà không kết hôn nhưng lại có tài sản chung do cả hai cùng bỏ tiền ra mua hoặc đầu tư kinh doanh chung như xe, nhà, đất,… có thể đứng tên một người hoặc cả hai. Trong giai đoạn còn yêu và tin tưởng nhau nhiều người bỏ qua vấn đề này nhưng lại tiềm ẩn rủi ro lớn.
Nếu kết hôn hợp pháp, tài sản hình thành trong thời kỳ hôn nhân được coi là tài sản chung và sẽ được chia theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình nếu ly hôn. Nhưng nếu chỉ sống chung, phần tài sản này sẽ chia theo Bộ luật Dân sự:
- Ai đứng tên sở hữu thì người đó được quyền định đoạt.
- Nếu muốn chứng minh tài sản là của cả hai, phải có giấy tờ chứng minh cùng góp vốn hoặc có thoả thuận trước.
Trong thực tế, khi mối quan hệ xấu đi, người không đứng tên tài sản thường chịu thiệt, đặc biệt là nhà đất hoặc khoản tiền lớn vì không chứng minh được đó là tải sản chung.
Bên cạnh đó, cũng không thể phủ nhận rằng, trong một số hoàn cảnh, sống chung mà không kết hôn là hợp lý:
- Cả hai chưa chắc chắn về tình cảm và chưa muốn ràng buộc.
- Cả hai độc lập tài chính, không dựa vào nhau về kinh tế.
- Đã có thỏa thuận bằng văn bản về chia sẻ chi phí sinh hoạt, quyền sở hữu tài sản và trách nhiệm với con cái nếu chia tay.
Tuy nhiên, ngay cả trong những trường hợp này, việc chuẩn bị trước về mặt pháp lý vẫn rất cần thiết để tránh rủi ro có thể xảy đến bất cứ lúc nào.