Khi ly hôn ai được quyền nuôi con?
Ly hôn là điều không một cặp đôi nào mong muốn nhưng lại phổ biến trong xã hội hiện đại. Mặc dù lý do ly hôn trong mỗi gia đình sẽ khác nhau nhưng thường xảy ra tranh chấp về quyền nuôi con bởi ai cũng muốn con cái do chính mình chăm sóc và nuôi dưỡng. Vậy khi ly hôn ai được quyền nuôi con? Bài viết dưới đây sẽ giúp bạn giải đáp thắc mắc này.
Mục lục
1. Khi ly hôn ai được quyền nuôi con theo quy định của pháp luật
Thông thường, sau khi ly hôn, vợ hoặc chồng đều mong muốn con cái sẽ ở với mình và được chính mình chăm sóc, nuôi dưỡng. Tuy nhiên, điều này còn phụ thuộc vào nhiều tiêu chí khác nhau. Hiện nay, vấn đề về giành quyền nuôi con đã được luật hóa cụ thể. Do đó, vấn đề khi ly hôn ai được quyền nuôi con không còn là vấn đề quá gay gắt nữa. Theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình 2014, quyền nuôi con sẽ được phân chia như sau:
1.1. Đối với con dưới 36 tháng tuổi
Đối với con cái dưới 36 tháng tuổi, con sẽ được trực tiếp giao cho người mẹ nuôi. Trong trường hợp người mẹ không đáp ứng đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con thì giao cho người cha nuôi. Tuy nhiên, phải có minh chứng cụ thể về việc người mẹ không có đủ các tiêu chí để trực tiếp nuôi con.
1.2. Đối với con từ đủ 36 tháng tuổi trở lên
Đối với con trẻ từ đủ 36 tháng tuổi trở lên, vợ chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con. Trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi. Việc trao quyền cho một bên trực tiếp nuôi dựa trên nguyên tắc sau:
- Dựa vào quyền lợi của con về mặt vật chất, tinh thần,…
- Xem xét nguyện vọng khi con từ đủ 07 tuổi trở lên.
Ngoài ra, nếu như cả hai cha mẹ đều không đủ điều kiện để trực tiếp nuôi con thì Tòa án sẽ giao con cho người giám hộ, bao gồm:
- Người giám hộ đương nhiên theo thứ tự: Anh ruột hoặc chị ruột là cả, anh ruột chị ruột tiếp theo (nếu đối tượng trước đó không đủ điều kiện trực tiếp nuôi). Trong trường hợp không có anh, chị ruột thì ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại là người giám hộ,…
- Người giám hộ được chỉ định. Trường hợp không có người giám hộ đương nhiên thì UBND xã nơi cư trú của người giám hộ có trách nhiệm cử người giám hộ.
2. Điều kiện để giành quyền nuôi con
Mặc dù quyền nuôi con đã được quy định theo pháp luật thế nhưng nhiều người vẫn nhầm lẫn và thậm chí mặc định cho rằng người mẹ luôn có lợi thế trong việc giành quyền nuôi con. Trên thực tế, nếu người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp nuôi con, người cha hoàn toàn có thể chứng minh khả năng của mình cũng như những thiếu sót về tiêu chí của đối phương, cụ thể như sau:
- Điều kiện vật chất, kinh tế: Chứng minh được thu nhập thực tế, công việc có mang tính chất ổn định không, có nhà cửa và tài sản riêng không?,…
- Điều kiện về tinh thần: Điều kiện tinh thần sẽ dựa vào thời gian chăm sóc, giáo dục, dạy dỗ con cái, tình cảm trước đó với con, đáp ứng được các điều kiện về sự phát triển nhân cách, tinh thần của con,…
- Bên cạnh đó, nếu đối phương từng có hành vi ngược đãi con hoặc ngoại tình, có thể thu thập bằng chứng gửi đến Tòa án nhằm giành quyền nuôi con từ đối phương.
Tuy nhiên, thông thường việc giành quyền nuôi con thường xảy ra đối với trường hợp ly hôn đơn phương, hai vợ chồng không thỏa thuận được việc ai là người trực tiếp nuôi con. Do đó, trong quá trình chuẩn bị hồ sơ ly hôn, cần phải có thêm những thông tin minh chứng bằng hình ảnh, video hoặc văn bản,… với nội dung như đã nêu trên.
3. Cha mẹ không trực tiếp nuôi con có được thăm con không?
Căn cứ theo quy định tại Điều 82 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014, cha mẹ không trực tiếp nuôi con được quyền thăm con mà không phải gặp bất kỳ trở ngại nào. Tuy nhiên, không được lạm dụng việc thăm con để gây cản trở hoặc làm ảnh hưởng xấu đến việc chăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con của người trực tiếp nuôi. Nếu có những hành vi như vậy, người trực tiếp nuôi có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm con của người đó, cụ thể được quy định tại Điều 85 của Luật này:
“Điều 85. Hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên
1. Cha, mẹ bị hạn chế quyền đối với con chưa thành niên trong các trường hợp sau đây:
a) Bị kết án về một trong các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con với lỗi cố ý hoặc có hành vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con;
b) Phát tán tài sản của con;
c) Có lối sống đồi trụy;
d) Xúi giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội.
2. Căn cứ vào từng trường hợp cụ thể, Tòa án có thể tự mình hoặc theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức quy định tại Điều 86 của Luật này ra quyết định không cho cha, mẹ trông nom, chăm sóc, giáo dục con, quản lý tài sản riêng của con hoặc đại diện theo pháp luật cho con trong thời hạn từ 01 năm đến 05 năm. Tòa án có thể xem xét việc rút ngắn thời hạn này.”