Ly hôn giành quyền nuôi con như thế nào?
Khi ly hôn những cặp vợ chồng có con chung sẽ rất khó khăn trong việc phân định quyền nuôi con. Người mẹ thường nghĩ con cái sống với mẹ sẽ được chăm sóc chu đáo hơn, trong khi người bố lại cho rằng mình mới là người đảm bảo được cuộc sống cho con. Vậy ly hôn giành quyền nuôi con như thế nào để đảm bảo đời sống tinh thần và vật chất cho con.
Mục lục
1. Quyền nuôi con sau ly hôn
Theo quy định của pháp luật thì để quyết định quyền nuôi con khi ly hôn cần dựa trên độ tuổi, ý kiến của trẻ và điều kiện của cha mẹ.
1.1. Trường hợp trẻ dưới ba tuổi
Căn cứ vào Khoản 3 Điều 81 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 thì: Con dưới 36 tháng tuổi sẽ được giao cho người mẹ trực tiếp nuôi dưỡng, trừ trường hợp người mẹ không có đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con hoặc người bố người mẹ có thỏa thuận khác đảm bảo lợi ích của con.
Quy định này của pháp luật giúp đảm bảo quyền được phát triển toàn diện của trẻ em. Trong độ tuổi này trẻ em cần có sự chăm sóc của người mẹ hơn người bố.
Tuy nhiên không phải trong mọi trường hợp người mẹ đều được có quyền ưu tiên này. 2 trường hợp sau đây người mẹ sẽ mất quyền ưu tiên:
- Người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con;
- Cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.
1.2. Trường hợp trẻ trên 3 tuổi
Theo Khoản 2 Điều 81 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014: “2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.”
- Đối với trẻ từ 3 đến 7 tuổi: Tòa án xem xét quyền nuôi con hoàn toàn dựa vào quyền lợi của trẻ. Trong giai đoạn này, việc cha, mẹ chứng minh mình có đủ các điều kiện để chăm sóc con là vô cùng quan trọng. Tòa án sẽ quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào các điều kiện: Vật chất như điều kiện kinh tế, gia sản, thu nhập, tài sản, chỗ ở,…; Tinh thần như thời gian chăm sóc, giáo dục, dạy dỗ con tình cảm trước giờ với con như thế nào? thời gian vui chơi với con, trình độ học vấn, nhân cách đạo đức,…;
- Con trên 7 tuổi thì Tòa án phải xem xét nguyện vọng của trẻ và ghi nhận bằng văn bản.
2. Ly hôn giành quyền nuôi con như thế nào?
Việc xác định quyền nuôi con khi ly hôn ngoài thực hiện theo các nguyên tắc trên còn dựa vào khả năng thực tế của các bên trong tranh chấp. Để đảm bảo nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục tốt nhất cho đứa trẻ, cần chứng minh được những khả năng hiện có của mình cả về mặt vật chất lẫn tinh thần như:
- Đảm bảo được các điều kiện về vật chất ăn ở, sinh hoạt, điều kiện học tập… Chứng minh về thu nhập ổn định, nơi cư trú, các tài sản hiện có để đáp ứng cho nhu cầu phát triển của con ở hiện tại và tương lai.
- Chứng minh được bạn có thể đáp ứng các điều kiện về tinh thần như: có đủ thời gian để chăm sóc, dạy dỗ, tạo điều kiện cho bé phát triển tâm lý đúng lứa tuổi. Về nhân cách đạo đức, tình cảm dành cho con từ trước đến nay, luôn quan tâm và chăm sóc con cái.
- Chứng minh về điều kiện chăm sóc con trong môi trường phù hợp.
Trường hợp cả cha và mẹ đều không đủ điều kiện trực tiếp nuôi con sau ly hôn thì Tòa án quyết định giao con cho người giám hộ, trong đó bao gồm:
– Người giám hộ đương nhiên theo thứ tự sau:
- Anh ruột là anh cả hoặc chị ruột là chị cả là người giám hộ; Nếu anh cả hoặc chị cả không có đủ điều kiện làm người giám hộ thì anh ruột hoặc chị ruột tiếp theo là người giám hộ trừ trường hợp có thỏa thuận anh ruột hoặc chị ruột khác là người giám hộ;
- Trường hợp không có anh, chị ruột thì ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại là người giám hộ hoặc những người này thỏa thuận cử một hoặc một số người trong số họ là người giám hộ;
- Trường hợp không có người giám hộ như các đối tượng nêu trên thì bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột hoặc dì ruột là người giám hộ.
– Trường hợp không có người giám hộ đương nhiên thì UBND cấp xã nơi cư trú của người được giám hộ có trách nhiệm cử người giám hộ.
– Trường hợp có tranh chấp giữa những người giám hộ đương nhiên về người giám hộ hoặc tranh chấp về việc cử người giám hộ thì Tòa án chỉ định người giám hộ.