Ly hôn khi vợ/chồng thường xuyên thay đổi nơi cư trú
Bên cạnh trường hợp ly hôn thuận tình thì có rất nhiều trường hợp ly hôn đơn phương mà vợ/ chồng không hợp tác để giải quyết. Họ thường xuyên trốn tránh hoặc thay đổi nơi cư trú liên tục để gây khó khăn cho đối phương khi làm thủ tục giải quyết ly hôn. Trong trường hợp này, người có yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn cần phải làm gì để chấm dứt quan hệ hôn nhân theo quy định của pháp luật?
Xem thêm:
Thuận tình ly hôn nhưng vắng mặt một bên
Thủ tục ly hôn với người mất tích
Tư vấn cách giành quyền nuôi con khi ly hôn
Ly hôn khi vợ/chồng thường xuyên thay đổi nơi cư trú
Mục lục
Thẩm quyền giải quyết của Tòa án khi ly hôn đơn phương
Trong trường hợp ly hôn đơn phương thì thẩm quyền giải quyết được xác định theo quy định tại Khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Theo đó, Tòa án nhân dân cấp quận/ huyện nơi bị đơn cư trú, làm việc sẽ có thẩm quyền giải quyết trong trường hợp ly hôn đơn phương. Trong trường hợp nguyên đơn không biết nơi cư trú, làm việc của bị đơn thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc cuối cùng hoặc nơi bị đơn có tài sản để giải quyết.
Đối chiếu với quy định tại Khoản 1 Điều 12 Luật cư trú năm 2006 thì nơi cư trú của công dân là chỗ ở hợp pháp mà người đó thường xuyên sinh sống. Nơi cư trú của công dân là nơi thường trú hoặc tạm trú. Trong đó, nơi thường trú là nơi công dân sinh sống thường xuyên, ổn định, không có thời hạn tại một chỗ ở nhất định và đã đăng ký thường trú; nơi tạm trú là nơi công dân sinh sống ngoài nơi đăng ký thường trú và đã đăng ký tạm trú.
Như vậy, trong trường hợp ly hôn đơn phương thì vợ hoặc chồng là người khởi kiện sẽ nộp hồ sơ tại Tòa án nhân dân quận, huyện nơi bị đơn cư trú hoặc làm việc. Trong trường hợp không biết địa chỉ nơi cư trú, làm việc của bị đơn thì người khởi kiện có thể yêu cầu Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc cuối cùng giải quyết.
Cơ sở giải quyết ly hôn khi vợ hoặc chồng thường xuyên thay đổi nơi cư trú
Xác định nơi cư trú, làm việc của bị đơn
Căn cứ theo quy định tại điểm e khoản 1 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015: “Trường hợp trong đơn khởi kiện, người khởi kiện đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ nơi cư trú của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhưng họ không có nơi cư trú ổn định, thường xuyên thay đổi nơi cư trú, trụ sở mà không thông báo địa chỉ mới cho cơ quan, người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về cư trú làm cho người khởi kiện không biết được nhằm mục đích che giấu địa chỉ, trốn tránh nghĩa vụ đối với người khởi kiện thì Thẩm phán không trả lại đơn khởi kiện mà xác định người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cố tình giấu địa chỉ và tiến hành thụ lý, giải quyết theo thủ tục chung”.
Theo đó, địa chỉ nơi cư trú của người bị kiện là công dân Việt Nam được xác định như sau: Nếu người bị kiện là công dân Việt Nam thì nơi cư trú của họ là địa chỉ chỗ ở hợp pháp mà người bị kiện thường trú hoặc tạm trú hoặc đang sinh sống theo quy định của Luật cư trú (Điểm a Khoản 1 Điều 5 Nghị quyết 04/2017/NQ-HĐTP). Người khởi kiện đã cung cấp địa chỉ “nơi cư trú, làm việc” của người bị kiện theo đúng quy định của pháp luật tại thời điểm nộp đơn khởi kiện mà được cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cấp, xác nhận hoặc có căn cứ khác chứng minh rằng đó là địa chỉ của người bị kiện thì được coi là đã ghi đúng địa chỉ của người bị kiện theo quy định tại điểm e khoản 1 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
Xử lý việc ghi địa chỉ của người bị kiện
Căn cứ theo quy định tại Điều 6 Nghị quyết 04/2017/NQ-HĐTP, trường hợp trong đơn khởi kiện người khởi kiện đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ của người bị kiện thì Tòa án phải nhận đơn khởi kiện và xem xét thụ lý vụ án theo thủ tục chung.
Trường hợp sau khi thụ lý vụ án, Tòa án không tống đạt được thông báo về việc thụ lý vụ án do bị đơn không còn cư trú, làm việc tại địa chỉ mà nguyên đơn cung cấp thì Tòa án giải quyết như sau:
- Trường hợp trong đơn khởi kiện, người khởi kiện đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ nơi cư trú, làm việc theo địa chỉ được ghi trong giao dịch, hợp đồng bằng văn bản thì được coi là “đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ nơi cư trú, làm việc”. Trường hợp người bị kiện thay đổi nơi cư trú, làm việc mà không thông báo cho người khởi kiện biết về nơi cư trú, làm việc thì được coi là cố tình giấu địa chỉ và Tòa án tiếp tục giải quyết theo thủ tục chung mà không đình chỉ việc giải quyết vụ án vì lý do không tống đạt được cho bị đơn.
- Nếu không thuộc trường hợp nêu trên mà Tòa án đã yêu cầu nguyên đơn cung cấp địa chỉ mới của bị đơn nhưng nguyên đơn không cung cấp được thì có quyền yêu cầu Tòa án thu thập, xác minh địa chỉ mới của bị đơn theo quy định của pháp luật. Trường hợp Tòa án không xác định được địa chỉ mới của bị đơn thì Tòa án đình chỉ việc giải quyết vụ án.
Như vậy, trong vụ án ly hôn đơn phương, việc xác định chính xác địa chỉ cư trú, làm việc của bị đơn là yếu tố rất quan trọng để xác định thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Trong trường hợp bị đơn cố tình thay đổi thường xuyên nơi cư trú để gây khó khăn cho nguyên đơn trong quá trình giải quyết vụ án thì trên cơ sở các quy định của pháp luật, Tòa án vẫn có thể xem xét giải quyết theo thủ tục chung.