Gửi đơn ly hôn ở đâu sau khi sát nhập địa phương, Toà án?
Việc sáp nhập địa giới hành chính, đặc biệt là các đơn vị cấp huyện và cấp xã, đã và đang diễn ra tại nhiều nơi, kéo theo những thay đổi trong thẩm quyền của các cơ quan tư pháp, bao gồm cả Tòa án. Điều này có thể khiến nhiều người băn khoăn về việc gửi đơn ly hôn ở đâu sau khi địa phương hoặc Tòa án nơi mình sinh sống có sự thay đổi. Đừng lo lắng, qua bài viết dưới đây, Ly hôn Nhanh sẽ cùng bạn tìm hiểu quy định gửi đơn ly hôn sau khi đất nước đã sát nhập nhé!
1. Nộp đơn ly hôn ở đâu sau khi sát nhập địa phương, Toà án?
Việc sáp nhập địa giới hành chính và các đơn vị Tòa án đã và đang diễn ra, gây không ít băn khoăn cho người dân về nơi nộp đơn ly hôn. Từ ngày 01/7/2025, theo những sửa đổi, bổ sung của Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng Dân sự, Luật Tố tụng Hành chính, Luật Tư pháp người chưa thành niên, Luật Phá sản và Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án 2025, thẩm quyền giải quyết các vụ việc ly hôn sẽ có những điều chỉnh quan trọng.


Dù là thuận tình hay đơn phương, việc xác định đúng Tòa án có thẩm quyền là yếu tố then chốt để đảm bảo quá trình giải quyết được thuận lợi và đúng pháp luật.
1.1. Đối với trường hợp thuận tình ly hôn
Trong trường hợp vợ chồng bạn đã đạt được thỏa thuận về việc ly hôn, nuôi con và chia tài sản (thường gọi là thuận tình ly hôn), việc nộp đơn sẽ được thực hiện tại Tòa án nhân dân khu vực có thẩm quyền.
Cụ thể, theo Điều 29 và điểm h khoản 2 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, Tòa án nhân dân khu vực nơi một trong các bên (vợ hoặc chồng) cư trú hoặc làm việc sẽ có thẩm quyền giải quyết yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn của bạn. Điều này mang lại sự linh hoạt cho cả hai bên để thống nhất lựa chọn Tòa án thuận tiện nhất cho việc nộp đơn và tham gia tố tụng.
Căn cứ pháp lý:
- Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 (được sửa đổi, bổ sung bởi khoản 2 Điều 1 Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng Dân sự, Luật Tố tụng Hành chính, Luật Tư pháp người chưa thành niên, Luật Phá sản và Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án 2025): Quy định Tòa án nhân dân khu vực có thẩm quyền giải quyết yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn theo thủ tục sơ thẩm.
- Điều 29 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015: Liệt kê “Yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn” là một trong những yêu cầu về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.
- Điểm h khoản 2 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015: Xác định thẩm quyền theo lãnh thổ: “Tòa án nơi một trong các bên thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn cư trú, làm việc có thẩm quyền giải quyết yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn”.
1.2. Đối với trường hợp đơn phương ly hôn
Nếu một bên yêu cầu ly hôn mà bên kia không đồng ý hoặc không thể liên lạc được (đơn phương ly hôn), từ ngày 01/7/2025, Tòa án nhân dân khu vực cũng sẽ có thẩm quyền giải quyết.
Theo khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, người yêu cầu ly hôn (nguyên đơn) sẽ nộp đơn tại Tòa án nhân dân khu vực nơi bị đơn cư trú hoặc làm việc. Tuy nhiên, Bộ luật cũng cho phép các đương sự có quyền tự thỏa thuận bằng văn bản để yêu cầu Tòa án nơi cư trú, làm việc của nguyên đơn giải quyết vụ việc. Điều này tạo điều kiện thuận lợi hơn cho nguyên đơn trong một số trường hợp nhất định, đặc biệt khi việc đi lại đến nơi cư trú của bị đơn gặp khó khăn.
Xem thêm: Tư vấn pháp lý thủ tục và quy trình gửi đơn xin ly hôn đơn phương
2. Ai có quyền yêu cầu ly hôn theo quy định?
Căn cứ theo Điều 51 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định về quyền yêu cầu giải quyết ly hôn:
Điều 51. Quyền yêu cầu giải quyết ly hôn
1. Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn.
2. Cha, mẹ, người thân thích khác có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ.
3. Chồng không có quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi.


Như vậy, theo quy định pháp luật hiện hành, cả vợ hoặc chồng đều có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn. Dù là trường hợp cả hai cùng thuận tình ly hôn và đã thống nhất về việc nuôi con, chia tài sản, hay chỉ một bên muốn ly hôn (đơn phương ly hôn), quyền nộp đơn đều được pháp luật công nhận.
Ngoài vợ chồng, cha, mẹ, hoặc người thân thích khác cũng có thể yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn trong một số tình huống đặc biệt. Quyền này phát sinh khi một bên vợ hoặc chồng:
- Bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác khiến họ không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình.
- Đồng thời, người này là nạn nhân của bạo lực gia đình do chính vợ/chồng của họ gây ra, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe hoặc tinh thần của họ.
Quy định này nhằm bảo vệ những người yếu thế, không thể tự bảo vệ quyền lợi của mình trong hôn nhân.
Tuy nhiên, cần đặc biệt lưu ý rằng người chồng không có quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con, hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi. Quy định này nhằm bảo vệ sức khỏe, tâm lý của người mẹ trong giai đoạn nhạy cảm, đồng thời đảm bảo sự ổn định và phát triển của trẻ nhỏ.