Bạo lực gia đình
Bạo lực gia đình là hành vi cố ý của thành viên gia đình gây tổn hại hoặc có khả năng gây tổn hại về thể chất, tinh thần, kinh tế đối với thành viên khác trong gia đình. Thực tế hiện nay, hành vi bạo lực gia đình diễn ra khá phổ biến ở Việt Nam. Hành vi bao lực gia đình cũng là một trong những căn cứ để giải quyết ly hôn. Theo Luật phòng chống bạo lực gia đình thì hành vi bạo lực không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe, tính mạng mà con xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm con người.
Vợ hoặc chồng có quyền bán tài sản chung trước khi ly hôn?
Ly thân lâu năm có còn được phân chia tài sản
Quyền thừa kế tài sản giữa vợ chồng
Các hành vi bạo lực gia đình quy định tại Điều 2 Luật phòng chống bạo lực gia đình:
a) Hành hạ, ngược đãi, đánh đập hoặc hành vi cố ý khác xâm hại đến sức khoẻ, tính mạng;
b) Lăng mạ hoặc hành vi cố ý khác xúc phạm danh dự, nhân phẩm;
c) Cô lập, xua đuổi hoặc gây áp lực thường xuyên về tâm lý gây hậu quả nghiêm trọng;
d) Ngăn cản việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trong quan hệ gia đình giữa ông, bà và cháu; giữa cha, mẹ và con; giữa vợ và chồng; giữa anh, chị, em với nhau;
đ) Cưỡng ép quan hệ tình dục;
e) Cưỡng ép tảo hôn; cưỡng ép kết hôn, ly hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ;
g) Chiếm đoạt, huỷ hoại, đập phá hoặc có hành vi khác cố ý làm hư hỏng tài sản riêng của thành viên khác trong gia đình hoặc tài sản chung của các thành viên gia đình;
h) Cưỡng ép thành viên gia đình lao động quá sức, đóng góp tài chính quá khả năng của họ; kiểm soát thu nhập của thành viên gia đình nhằm tạo ra tình trạng phụ thuộc về tài chính;
i) Có hành vi trái pháp luật buộc thành viên gia đình ra khỏi chỗ ở.
Luật phòng chống bạo lực gia định quy định rất nhiều trường hợp được coi là hành vi bạo lực gia đình như cưỡng ép quan hệ tình dục, hay đập phá hủy hoại tài sản của các thành viên trng gia đình… Thông thường mọi người chỉ nghĩ hành vi bạo lực trong gia đình chỉ bao gồm đánh đập…nhưng luật quy định không chỉ giới hạn ở đó, vì mục đích bảo vệ phụ nữ và trẻ em.
Hành vi bạo lực quy định tại khoản 1 Điều này cũng được áp dụng đối với thành viên gia đình của vợ, chồng đã ly hôn hoặc nam, nữ không đăng ký kết hôn mà chung sống với nhau như vợ chồng.
Luật Hôn nhân gia đình 2014 không bỏ các quy định bảo vệ chế độ hôn nhân, một trong số đó là quy định về bạo lực gia đình. Ngay tại Điều 5 Luật HNGD quy định bảo vệ chế độ hôn nhân gia đình trong đó bao gồm cả bạo lực gia đình.
Điều 51 Luật HNGD 2014 quy định quyền yêu cầu giải quyết ly hôn: Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn; Cha, mẹ, người thân thích khác có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ.
Có thể thấy rất nhiều văn bản pháp luật có những quy định bảo vệ phụ nữ và trẻ em, vì đây là bộ phận người yếu thế hơn trong xã hội, dễ bị tổn thương. Không phải chỉ có vợ hoặc con bị xâm phạm mới được coi là hành vi bạo lực gia đình, Luật phòng chống bạo lực gia đình có quy định luật này còn được áp dụng cho việc vợ chồng đã ly hôn hoặc nam, nữ sống với nhau như vợ chồng. Tùy vào mức độ xâm phạm, có thể bị xử phạt hành chính hay bị truy cứu trách nhiệm hình sự.