Quy định pháp luật về hành vi bạo lực gia đình
Hiện nay, vấn đề bạo lực gia đình ngày càng trở nên phổ biến và đang có chiều hướng gia tăng trong cộng đồng. Bạo lực gia đình không những để lại những hậu quả về thể chất, tinh thần cho cá nhân bị bạo hành mà còn ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển kinh tế – xã hội. Ngày 21/11/2007 Quốc hội đã thông qua Luật phòng, chống bạo lực gia đình.
Chia tài sản cho con cái trong thời kỳ hôn nhân
Đánh bạc trái phép là hành vi vi phạm pháp luật
Tòa án nào giải quyết ly hôn có yếu tố nước ngoài
Có thể nói, sự ra đời của Luật này đã đánh dấu một bước quan trọng trong việc phòng ngừa cũng như hỗ trợ những nạn nhân của hành vi bao lực gia đình. Để bảo vệ quyền lợi của mình, trước hết công dân cần hiểu rõ các quy định pháp luật về vấn đề này.
Bạo lực gia đình được hiểu là “ hành vi cố ý của thành viên gia đình gây tổn hại hoặc có khả năng gây tổn hại về thề chất, tinh thần, kinh tế đối với thành viên khác trong gia đình”.
Theo quy định này, hành vi bạo lực bên cạnh các hành vi xâm phạm về thể chất, tinh thần thì gây thiệt hại về kinh tế cũng là hành vi vi phạm. Do đó, trong trường hợp người bị bạo lực chứng minh được các tổn hại nêu trên là hệ quả trực tiếp từ hành vi bạo lực thì có thể thực hiện các biện pháp để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Có thể phân loại các hành vi bạo lực gia đình thành các nhóm sau:
- Hành vi bạo hành thể xác: bao gồm hành vi hành hạ, ngược đãi, đánh đập hoặc hành vi cố ý khác xâm hại đến sức khoẻ, tính mạng của người khác.
- Hành vi bạo hành tình dục: thuộc về hành vi cưỡng ép quan hệ tình dục.
- Hành vi bạo hành tinh thần: như hành vi lăng mạ , hành vi cố ý khác xúc phạm danh dự, nhân phẩm, hành vi cô lập, xua đuổi hoặc gây áp lực thường xuyên về tâm lý gây ra những hậu quả nghiêm trọng.
- Hành vi bạo hành xã hội: gồm những hành vi như cưỡng ép thành viên trong gia đình tảo hôn, kết hôn, ly hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ của thành viên trong gia đình. Hành vi chiếm đoạt, huỷ hoại, đập phá hoặc có hành vi khác cố ý làm hư hỏng tài sản riêng của thành viên khác trong gia đình hoặc tài sản chung của các thành viên gia đình. Cưỡng ép thành viên gia đình lao động quá sức, đóng góp tài chính quá khả năng của họ; kiểm soát thu nhập của thành viên gia đình nhằm tạo ra tình trạng phụ thuộc về tài chính. Hành vi buộc thành viên gia đình ra khỏi chỗ ở trái pháp luật.
Với những hành vi bạo lực gia đình trên, tùy vào mức độ, tính chất của hành vi mà sẽ bị áp dụng các chế tài xử lý vi phạm hành chính hoặc hình sự. Theo đó, những hành vi chưa gây ra hậu quả nghiêm trọng và chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm để xử lý hình sự thì sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính dưới hình thức phạt tiền và các biện pháp ngăn chặn, khắc phục hậu quả. Mức phạt tiền từ 100.000 VND đến 2.000.000 VND tương ứng với từng hành vi được quy đinh trong Mục 4 của Nghị định 167/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình.
Đối với những hành vi có tính chất nghiêm trọng, cấu thành tội phạm có thể bị xử lý hình sự theo các điều: tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Điều 104 BLHS); tội hành hạ người khác (Điều 110); tội bức tử (Điều 100)….Theo đó, hình phạt đối với các tội này có thể là hình phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ hoặc hình phạt tù có thời hạn.
Căn cứ vào các quy định nêu trên, những chủ thể là nạn nhân của hành vi bạo lực gia đình có thể tự mình khiếu nại hoặc tố cáo đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền: Ủy ban nhân dân hoặc Cơ quan công an…yêu cầu các cơ quan này xử lý đối với hành vi vi phạm. Bên cạnh đó, họ cũng có thể liên hệ với các tổ chức xã hội như Hội phụ nữ, Hội bảo vệ quyền trẻ em,… để được tư vấn, hỗ trợ khi bị xâm phạm quyền lợi. Có thể thấy mặc dù Nhà nước đã ban hành các quy định khá cụ thể để ngăn chặn và xử lý hành vi bạo lực gia đình, tuy nhiên thực tế vấn nạn này vẫn chưa có sự giảm thiểu đáng kể. Chính vì vậy, bên cạnh viêc thực thi và áp dụng pháp luật một các chặt chẽ, cần thực hiện tốt các biện pháp tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức của công dân về vấn đề này.