Di chúc miệng như thế nào là hợp pháp
Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết. Di chúc phải được lập thành văn bản, chỉ trong những trường hợp đặc biệt, di chúc mới có thể được lập bằng lời nói, gọi là di chúc miệng.
Bao nhiêu tuổi thì có thể lập di chúc
Kinh doanh trái phép là gì?
Quyền kết hôn của LGBT theo pháp luật Việt Nam
Chỉ được lập di chúc miệng trong trường hợp tính mạng của người để lại di sản bị cái chết đe dọa và không thể lập di chúc bằng văn bản theo Khoản 1 Điều 629 BLDS 2015. Như vậy việc lập di chúc miệng phải trong trường hợp thực sự cấp thiết do bị bệnh tật hay các nguyên nhân khác mà không thể lập được di chúc bằng văn bản.
Theo Điều 630 BLDS 2015, di chúc được xem là hợp pháp khi người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe dọa hoặc cưỡng ép; nội dung di chúc không trái pháp luật, đạo đức xã hội. Ngoài ra đối với di chúc miệng, theo khoản 5 Điều 630 BLDS 2015 quy định, người lập di chúc miệng phải thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau khi người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng, người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc miệng phải được công chứng viên hoặc cơ quan có thẩm quyền chứng thực xác nhận chữ ký hoặc điểm chỉ của người làm chứng .
Những người sau đây không được làm chứng trong di chúc miệng: Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc; người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc, người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi (Điều 632 BLDS 2015)
Sau 03 tháng, kể từ thời điểm lập di chúc miệng mà người lập di chúc còn sống, minh mẫn, sáng suốt thì di chúc miệng mặc nhiên bị hủy bỏ.
Ví dụ: Ông A bị tai nạn giao thông nguy hiểm đến tính mạng. Lúc hấp hối, ông A bày tỏ nguyện vọng muốn để lại tài sản của mình cho người cháu nội của mình. Vì ông A đã quá yếu, không thể tự tay viết được bản di chúc, nên ông “nói miệng” thể hiện ý chí “cho cháu nội tải sản”. Lúc này, ý chí của ông chính là “di chúc miệng” và phải có ít nhất hai người làm chứng. Nhưng hai người làm chứng này không thể là người cháu nội mà ông muốn cho tài sản, cũng không được là vợ, con, cháu … (của ông) – vì những người này là người được hưởng di sản thừa kết theo pháp luật (tức là nếu ông A không có di chúc thì những người này sẽ được hưởng thừa kế theo qui định của pháp luật). Trong trường hợp này, có thể nhờ y tá, bác sĩ tại bệnh viện để làm chứng di chúc miệng.
Tóm lại, di chúc miệng là một hình thức đặc biệt của di chúc chỉ được lập trong một số trường hợp đặc biệt và để di chúc miệng có hiệu lực cũng phải tuân thủ một số điều kiện khác so với di chúc thông thường.