Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo theo quy định của pháp luật hiện hành
Hiện nay, các cặp vợ chồng vì lý do nào đó không thể tự sinh con có quyền nhờ người mang thai hộ . Mang thai hộ đã được pháp luật hóa trong Luật Hôn nhân và gia đình 2014. Tuy nhiên, việc mang thai hộ là vấn đề hết sức nhạy cảm, không phải trường hợp nào MUỐN cũng có thể nhờ hoặc mang thai hộ.
Điều kiện về năng lực hành vi dân sự khi đăng ký kết hôn
Xác lập thỏa thuận về tiền hôn nhân, hình thức và nội dung
Phải làm gì khi phát hiện vợ, chồng lừa dối kết hôn
Pháp luật quy định rõ việc nhờ người mang thai hộ khi đủ các điều kiện sau:
Thứ nhất, Giấy xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về việc người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản;
Thứ hai, vợ chồng đang không có con chung;
Thứ ba, vợ chồng đã được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý.
Điều kiện đối với người mang thai hộ như sau:
Thứ nhất, là người thân thích cùng hàng của bên vợ hoặc bên chồng nhờ mang thai hộ;
Thứ hai, đã từng sinh con và chỉ được mang thai hộ một lần;
Thứ ba, ở độ tuổi phù hợp và có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về khả năng mang thai hộ;
Thứ tư, trường hợp người phụ nữ mang thai hộ có chồng thì phải có sự đồng ý bằng văn bản của người chồng
Thứ năm, đã được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý.
Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định bên nhờ mang thai hộ không được từ chối nhận con, trường hợp bên nhờ mang thai hộ từ chối nhận con, thì bên mang thai hộ có quyền yêu cầu Tòa án buộc bên nhờ mang thai hộ nhận con. Trong trường hợp bên mang thai hộ từ chối giao con, thì bên nhờ mang thai hộ có quyền yêu cầu Tòa án buộc bên mang thai hộ giao con. Trong trường hợp bên nhờ mang thai hộ chết, thì con được hưởng thừa kế theo pháp luật đối với di sản của bên nhờ mang thai hộ…
Pháp luật quy định rất chặt chẽ về thỏa thuận về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo. Theo đó, thỏa thuận về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo phải bảo đảm các điều kiện:
– Lập thành văn bản có công chứng. Trong trường hợp vợ chồng bên nhờ mang thai hộ ủy quyền cho nhau hoặc vợ chồng bên mang thai hộ ủy quyền cho nhau về việc thỏa thuận thì việc ủy quyền phải lập thành văn bản có công chứng. Việc ủy quyền cho người thứ ba không có giá trị pháp lý. Trong trường hợp thỏa thuận về mang thai hộ giữa bên mang thai hộ và bên nhờ mang thai hộ được lập cùng với thỏa thuận giữa họ với cơ sở y tế thực hiện việc sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản thì thỏa thuận này phải có xác nhận của người có thẩm quyền của cơ sở y tế này;
– Có thông tin đầy đủ về bên nhờ mang thai hộ và bên mang thai hộ theo các điều kiện có liên;
– Quy định rõ quyền, nghĩa vụ về hỗ trợ để bảo đảm sức khỏe sinh sản cho người mang thai hộ trong thời gian mang thai và sinh con, việc nhận con của bên nhờ mang thai hộ, quyền và nghĩa vụ của hai bên đối với con trong trường hợp con chưa được giao cho bên nhờ mang thai hộ và các quyền, nghĩa vụ;
– Trách nhiệm dân sự trong trường hợp một hoặc cả hai bên vi phạm cam kết theo thỏa thuận.
Trường hợp phát sinh tranh chấp liên quan tới việc mang thai hộ thì Tòa án là cơ quan có thẩm quyền giải quyết. Trong trường hợp bên nhờ mang thai hộ không còn mà bên mang thai hộ không nhận nuôi đứa trẻ, thì Tòa án chỉ định người giám hộ cho đứa trẻ theo quy định của Bộ luật dân sự. Trong trường hợp bên nhờ mang thai hộ không nhận con và bên mang thai hộ không tự nguyện chăm sóc, nuôi dưỡng đứa trẻ, thì Tòa án chỉ định người giám hộ cho đứa trẻ, bên nhờ mang thai hộ có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho con.
Quy định mới về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo thể hiện tính nhân văn sâu sắc, đáp ứng nhu cầu làm cha làm mẹ của các cặp vợ chồng mà người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản.