Nguyên tắc phân chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn
Ly hôn là sự kiện pháp lý nhằm chấm dứt quan hệ hôn nhân khi mà đời sống chung của vợ chồng không còn hạnh phúc, không thể chung sống với nhau được nữa thì ly hôn được chọn là giải pháp cuối cùng để giải thoát cho cả hai. Tuy nhiên, khi giải quyết ly hôn sẽ kéo theo các vấn đề pháp lý khác như quyền nuôi con, giải quyết nợ chung và đặc biệt là vấn đề phân chia tài sản chung của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân.
Tài sản chung của vợ chồng hình thành từ tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản mà vợ chồng cùng thỏa thuận đó là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng. Các loại giấy tờ về nhà đất, xe cộ…được cấp sau khi kết hôn mà không chứng minh được đây là tài sản riêng thì khối tài sản này là tài sản chung của vợ, chồng. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để đảm bảo nhu cầu cuộc sống của gia đình. Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ chồng đang tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì đó được coi là tài sản chung. Đối với khối tài sản chung thì vợ chồng có quyền ngang nhau trong việc quản lý, sử dụng và định đoạt.
Khi giải quyết ly hôn về tài sản chung Tòa án sẽ căn cứ vào quy định tại Điều 59 Luật hôn nhân và gia đình và điều 7,Thông tư 01/2016/TTLT – TANDTC – VKSNDTC – BTP để giải quyết, theo đó quy định cụ thể như sau:
Vợ chồng khi ly hôn có quyền tự thỏa thuận với nhau về toàn bộ các vấn đề trong đó có cả việc phân chia tài sản. Trường hợp vợ chồng không thỏa thuận được mà có yêu cầu thì Tòa án phải xem xét, quyết định việc áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng theo sự thỏa thuận hay theo luật định, tùy từng trường hợp cụ thể mà Tòa án xử lý như sau:
Trường hợp không có thỏa thuận về tài sản của vợ chồng hoặc văn bản thỏa thuận về tài sản của vợ chồng bị Tòa án tuyên vô hiệu toàn bộ thì áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định để chia tài sản của vợ, chồng khi ly hôn; Trường hợp có văn bản thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng và văn bản này không bị Tòa án tuyên vô hiệu toàn bộ thì áp dụng các nội dung của văn bản thỏa thuận để chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn. Đối với những vấn đề không được vợ chồng thỏa thuận hoặc thỏa thuận không rõ ràng hoặc bị vô hiệu thì áp dụng các quy định tương ứng tại khoản 2, 3 ,4 , 5 Điều 59 và các điều 60, 61, 62, 63, 64 của Luật Hôn nhân và gia đình để chia tài sản của vợ, chồng khi ly hôn.
Khi chia tài sản chung của vợ, chồng khi ly hôn, Tòa án phải xác định vợ, chồng có quyền, nghĩa vụ về tài sản với người thứ ba hay không để đưa người thứ 3 vào tham gia tố tụng với tư cách là nguời có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan. Trường hợp vợ, chồng có quyền, nghĩa vụ về tài sản với người thứ 3 mà họ yêu cầu giải quyết thì Tòa án phải giải quyết khi chia tài sản chung của vợ, chồng. Trường hợp vợ chồng có nghĩa vụ về tài sản với người thứ 3 mà người thứ 3 không yêu cầu giải quyết thì Tòa án hướng dẫn họ để giải quyết bằng 1 vụ án khác.
Trường hợp áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định để chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn thì tài sản chung của vợ chồng về nguyên tắc được chia đôi nhưng có tính đến các yêu tố sau đây:
Thứ nhất: Hoàn cảnh của gia đình và của vợ chồng
Thứ hai: Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập duy trì và phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ chồng trong gia đình được coi như là lao động có thu nhập
Thứ ba: bảo về lợi ích chính đáng của các bên trong sản xuất kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có đủ điều kiện tiếp tục lao động tạo ra thu nhập
Thứ tư: Lỗi của các bên trong việc vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.
Tài sản chung của vợ chồng sẽ được chia bằng hiện vật, nếu không chia được bằng hiện vật thì chia theo giá trị. Bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn về phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần chênh lệch.
Vậy so với các quy định trước đây, quy định mới về việc phân chia tài sản chung của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 đã có những điểm mới hơn so với quy định trước đây. Theo quy định Pháp luật mới vấn đề phân chia tài sản chung đã có sự công nhận thỏa thuận của vợ, chồng trước` hôn nhân và khi phân chia tài sản chung của vợ chồng có tính đến yếu tố Lỗi của các bên trong việc vi phạm quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng. Đây cũng được coi là những điểm mới tiến bộ và đáng ghi nhận về vấn đề phân chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn.