Vợ chồng ly hôn có phải chịu trách nhiệm liên đới trả nợ cho vợ không?
Có rất nhiều thắc mắc cho rằng: Vợ chồng ly hôn có phải chịu trách nhiệm liên đới trả nợ cho vợ không? Nếu bạn cũng đang tìm hiểu về vấn đề này thì hãy tham khảo những thông tin dưới đây để có câu trả lời đúng nhất nhé!
Mục lục
1. Trách nhiệm liên đới trả nợ là gì?
Trách nhiệm liên đới trả nợ là trường hợp nhiều người cùng nhau chịu trách nhiệm trả một khoản nợ cho người cho vay. Khi đó, người cho vay có quyền yêu cầu bất kỳ ai trong số những người liên đới trả toàn bộ hoặc một phần khoản nợ. Đặc điểm của trách nhiệm liên đới trong đời sống hôn nhân là:
- Người cho vay có quyền yêu cầu bất kỳ ai trong số những người liên đới thanh toán toàn bộ khoản nợ, không phụ thuộc vào tỷ lệ góp vốn hay mức độ lỗi của mỗi người.
- Sau khi đã thanh toán toàn bộ hoặc một phần khoản nợ cho bên cho vay, người liên đới có quyền đòi bồi thường từ những người liên đới khác khoản tiền đã trả thay cho họ.
- Các bên liên đới có thể thỏa thuận về tỷ lệ trách nhiệm của mình trong việc thanh toán khoản nợ.
2. Vợ chồng ly hôn có phải chịu trách nhiệm liên đới trả nợ cho vợ không?
Vợ chồng ly hôn có phải chịu trách nhiệm liên đới trả nợ cho vợ không? Đây là thắc mắc của rất nhiều cặp đôi trong quá trình ly hôn. Việc người chồng có trách nhiệm liên đới trả nợ cho vợ hay không sẽ phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, thời điểm phát sinh từng khoản nợ. Cụ thể:
2.1. Khoản nợ phát sinh trong thời kỳ hôn nhân
Căn cứ Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định:
Trách nhiệm liên đới của vợ, chồng
1. Vợ, chồng chịu trách nhiệm liên đới đối với giao dịch do một bên thực hiện quy định tại khoản 1 Điều 30 hoặc giao dịch khác phù hợp với quy định về đại diện tại các điều 24, 25 và 26 của Luật này.
2. Vợ, chồng chịu trách nhiệm liên đới về các nghĩa vụ quy định tại Điều 37 của Luật này.
Như vậy, việc vợ/chồng vay tiền trong thời kỳ hôn nhân để phục vụ nhu cầu sinh hoạt chung của gia đình như chi phí ăn uống, thuê nhà, viện phí, giáo dục,… thì người chồng/vợ cần có trách nhiệm để trả nợ cùng với vợ.
Còn với trường hợp vay vì mục đích riêng để chi tiêu cho riêng người vợ/chồng, không dùng để sinh hoạt chung cho gia đình và người chồng/vợ không biết về số tiền đó thì không cần chịu liên đới trả nợ cho vợ/chồng. Tuy nhiên, trong trường hợp này thì người chồng/vợ phải chứng minh được là vợ/chồng chi tiêu dùng cho mục đích cá nhân, không đáp ứng nhu cầu sinh hoạt trong gia đình và không hề biết về số tiền đó.
2.2. Khoản nợ phát sinh sau ly hôn
Theo Khoản 1 Điều 288 Bộ luật Dân sự 2015, nghĩa vụ liên đới là nghĩa vụ do nhiều người cùng phải thực hiện và bên có quyền có thể yêu cầu bất cứ ai trong số những người có nghĩa vụ phải thực hiện toàn bộ nghĩa vụ.
Trong trường hợp vợ chồng vay nợ chung trong thời kỳ hôn nhân, nghĩa vụ trả nợ vẫn tồn tại ngay cả khi đã ly hôn. Việc người chồng không trực tiếp ký hợp đồng vay hay không có tên trong sổ vay không ảnh hưởng đến trách nhiệm này. Lý do là vì trong thời gian hôn nhân, vợ chồng được xem như một thể pháp lý duy nhất, do đó các khoản nợ phát sinh đều được coi là nợ chung.
Tuy nhiên, việc người vợ vẫn mang hộ khẩu đi vay sau thời kỳ hôn nhân thì nghĩa vụ trả nợ lúc này sẽ không liên quan đến người chồng. Vợ chồng ly hôn có nghĩa là đã chấm dứt quan hệ hôn nhân. Như vậy, hộ khẩu chỉ mang tính chất xác định nơi cư trú, không ảnh hưởng đến tình trạng hôn nhân hay các nghĩa vụ tài chính sau ly hôn.
Xem thêm: [Giải đáp] Khởi kiện ly hôn cần chú ý những nội dung gì?
3. Trước khi ly hôn thì tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân được quy định như thế nào?
Căn cứ Điều 38 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định như sau:
1. Trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng có quyền thỏa thuận chia một phần hoặc toàn bộ tài sản chung, trừ trường hợp quy định tại Điều 42 của Luật này; nếu không thỏa thuận được thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết.
2. Thỏa thuận về việc chia tài sản chung phải lập thành văn bản. Văn bản này được công chứng theo yêu cầu của vợ chồng hoặc theo quy định của pháp luật.
3. Trong trường hợp vợ, chồng có yêu cầu thì Tòa án giải quyết việc chia tài sản chung của vợ chồng theo quy định tại Điều 59 của Luật này.
Như vậy, trong thời kỳ hôn nhân thì vợ chồng có quyền thỏa thuận một phần hoặc toàn bộ tài sản có sự thống nhất với nhau. Nếu không thể thỏa thuận hoặc có xích mích thì có thể yêu cầu Tòa án giải quyết. Việc chia tài sản có thể được chia thành 50/50, 40/60 hoặc thậm chí là 30/70,… tùy vào từng trường hợp thống nhất giữa vợ và chồng.